Gia phả dòng họ Nguyễn thôn Hậu Xá có đoạn ghi cho thấy sự thất lạc (không có ghi chép để lại) vào thời kỳ Tây Sơn (khoảng từ năm 1788 đến 1802). Những ghi chép còn lại của thời kỳ trước đấy cũng rất sơ sài. Nội dung của phần ghi chép này cũng đã được gõ lại vào máy tính để lưu giữ và sẽ được trình bày dưới đây.
Tư liệu trình bày trong các bức ảnh trên đây cho thấy sau này các cụ lớn tuổi trong dòng họ cũng có những ghi chép riêng cho chi họ mình, để lại cho con cháu. Ghi chép này, do cụ Nguyễn Đình Oanh, con trai cụ Bảy, đời thứ V. của dòng họ trong cây phả hệ thực hiện vào mùa hè năm 1972.
![]() | ![]() |
![]() | ![]() |
GIA PHẢ HỌ NGUYỄN HẬU XÁ
Cụ thủy tổ Nguyễn Quý Công Hiệu Phúc Tính + Cụ bà hiệu Từ An.

Hậu duệ tiếp nối:

Hậu duệ tiếp nối:
Cụ Nguyễn Công tự Phúc Khuê + Cụ bà hiệu Từ Minh.
Cụ Nguyễn Công tự Thông Nghĩa + Cụ bà hiệu Từ Huệ.
Cụ Nguyễn Công tự Thuần Mỹ + Cụ bà hiệu Từ Ái.
Cụ Nguyễn Công tự Lương Chi.
Cụ Nguyễn Công tự Trạng.
Cụ Nguyễn Công tự Phúc Trung.
Cụ Nguyễn Công tự Đặng.
Cụ Nguyễn Công tự Huyền Không.
Các Cụ sống an vui, trên thờ cha mẹ, dưới dậy dỗ con cái không có điều nào đáng chê, chỉ tiếc sự việc đã lâu đời, nên không được tỏ tường mà ghi chép hết được.
Cụ bẩm sinh đĩnh ngộ, học thuật tinh thông, chú ý đến nghề thuốc, tinh thông mạch lý, làm phước chữa cho mọi người, thực là một bực hiền nhân vậy. Cụ sinh vào đời Tiền Lê.
Cụ Bà Lê thị Đức hiệu Từ Duyên. Cụ sinh hạ được: Con gái lớn Nguyễn Nhất Nương (Bà Cô Tổ) tự Phương Dung hiệu Quế Hoa, mất sớm. Con trai: Nguyễn Công tự Cập Đệ.
Cụ nối nghiệp cha, làm nên nhà cửa phong quang.
Cụ Bà hiệu Từ Đức. Hai cụ sinh một trai đặt tên là Đăng Khoa, rất hiếu học, dốc lòng nghiên cứu thi thư. Đến khi triều Lê mở khoa thi, hai cha con cùng đi thi và cùng đỗ sinh đồ, nếp nhà thư hương bắt đầu từ đấy.
Đỗ Sinh Đồ nhà Tiền Lê.
Sinh hạ Cụ Nguyễn Quý Công tự Đắc Vinh.
Cụ được thừa hưởng gia thế lớn, trong nhà dư giả của và người. Cụ lấy đạo nho dậy học trò, người trong thôn xã và cả huyện theo học rất đông.
Cụ Bà hiệu Từ Ninh. Hai cụ sinh 4 trai. Con cả: Quang Đạo, mẫn tiệp có tài thâm y lý, thi trúng Sinh Đồ; Con thứ 2: Quang Hiển thời nhà Lý làm Tổng Trưởng; Con thứ 3: Phúc Hoàn, thông y lý chuyên chữa trẻ con, biết địa lý, thông phong thủy; Con thứ 4: Quang Trạch làm nghề nông, giầu đến cự vạn.

Họ Nguyễn chia làm 4 ngành bắt đầu từ đấy.

Lý triều Tổng Trưởng Cụ Nguyễn Quý Công tự Quang Hiển.Ngày giỗ 1 tháng 6. Mộ cát táng ở xứ Ông Tiêu.
Cụ diện mạo khôi ngô, thuở nhỏ chuộng nghề võ. Thời Lê mạt loạn lạc, trộm cướp quấy nhiễu, dân cả tổng đều hay Cụ giỏi võ liền bầu Cụ làm tổng hào tuần phòng để dân được yên. Đến đầu triều Lý, Cụ được thực thụ làm Tổng Trưởng hơn 20 năm, thọ 81 tuổi.
Cụ Bà hiệu Từ Lương. Mộ cát táng tại xứ Ông Tiêu.
Cụ làm quan Hiệu Úy triều Trần. Hai con trai Cụ côn quyền xuất chúng thời Trần đánh giặc có công nên đều được phong Hiệu Úy.
Cụ Bà hiệu Từ Hòa.

GIA PHẢ THẤT LẠC ĐẾN ĐỜI TÂY SƠN.

Cụ Nguyễn Quý Công tự Thứ hiệu Phúc Thiện.Ngày giỗ ngày 12 tháng 5.
Cụ người minh mẫn, nói năng hoạt bát, ưa văn học, tiết kiệm khoan dung.
Cụ hiếm muộn sau khi cầu tự được bốn con.
Con cả: Duy Giai, giỏi về khoa chữa mắt sau làm Hương Hào.
Con thứ hai: Quang Diệu (Quang Chạc) thời Tây Sơn làm Xã Trưởng.
Con thứ ba: Quang Nhạ làm ruộng.
Con thứ tư: Duy Khoan, thời Tây Sơn làm Ngũ Trưởng sau thăng làm Mao Chức.
Cụ Bà hiệu Từ Ôn.
Cụ Nguyễn Công tự Thông Nghĩa + Cụ bà hiệu Từ Huệ.
Cụ Nguyễn Công tự Thuần Mỹ + Cụ bà hiệu Từ Ái.
Cụ Nguyễn Công tự Lương Chi.
Cụ Nguyễn Công tự Trạng.
Cụ Nguyễn Công tự Phúc Trung.
Cụ Nguyễn Công tự Đặng.
Cụ Nguyễn Công tự Huyền Không.
Các Cụ sống an vui, trên thờ cha mẹ, dưới dậy dỗ con cái không có điều nào đáng chê, chỉ tiếc sự việc đã lâu đời, nên không được tỏ tường mà ghi chép hết được.
Cụ Nguyễn Công tự Ảnh Hoàng, hiệu Phúc Quang.
Ngày giỗ 2 tháng 5. Mộ tại Cổ Bác Mộc, Tiết La Côn, bên dòng sông.Cụ bẩm sinh đĩnh ngộ, học thuật tinh thông, chú ý đến nghề thuốc, tinh thông mạch lý, làm phước chữa cho mọi người, thực là một bực hiền nhân vậy. Cụ sinh vào đời Tiền Lê.
Cụ Bà Lê thị Đức hiệu Từ Duyên. Cụ sinh hạ được: Con gái lớn Nguyễn Nhất Nương (Bà Cô Tổ) tự Phương Dung hiệu Quế Hoa, mất sớm. Con trai: Nguyễn Công tự Cập Đệ.
Cụ Nguyễn Công tự Cập Đệ.
Ngày giỗ 3 tháng 5. Mộ tại xứ Đồng Xám.Cụ nối nghiệp cha, làm nên nhà cửa phong quang.
Cụ Bà hiệu Từ Đức. Hai cụ sinh một trai đặt tên là Đăng Khoa, rất hiếu học, dốc lòng nghiên cứu thi thư. Đến khi triều Lê mở khoa thi, hai cha con cùng đi thi và cùng đỗ sinh đồ, nếp nhà thư hương bắt đầu từ đấy.
Cụ Nguyễn Quý Công tự Đăng Khoa, hiệu Phúc Trinh.
Ngày giỗ mùng 2 tháng 2.Đỗ Sinh Đồ nhà Tiền Lê.
Sinh hạ Cụ Nguyễn Quý Công tự Đắc Vinh.
Cụ Nguyễn Quý Công tự Đắc Vinh, hiệu Phúc An.
Ngày giỗ 30 tháng 8. Mộ tại xứ Ông Cấm. Cụ được thừa hưởng gia thế lớn, trong nhà dư giả của và người. Cụ lấy đạo nho dậy học trò, người trong thôn xã và cả huyện theo học rất đông.
Cụ Bà hiệu Từ Ninh. Hai cụ sinh 4 trai. Con cả: Quang Đạo, mẫn tiệp có tài thâm y lý, thi trúng Sinh Đồ; Con thứ 2: Quang Hiển thời nhà Lý làm Tổng Trưởng; Con thứ 3: Phúc Hoàn, thông y lý chuyên chữa trẻ con, biết địa lý, thông phong thủy; Con thứ 4: Quang Trạch làm nghề nông, giầu đến cự vạn.

Họ Nguyễn chia làm 4 ngành bắt đầu từ đấy.

Lý triều Tổng Trưởng Cụ Nguyễn Quý Công tự Quang Hiển.
Cụ diện mạo khôi ngô, thuở nhỏ chuộng nghề võ. Thời Lê mạt loạn lạc, trộm cướp quấy nhiễu, dân cả tổng đều hay Cụ giỏi võ liền bầu Cụ làm tổng hào tuần phòng để dân được yên. Đến đầu triều Lý, Cụ được thực thụ làm Tổng Trưởng hơn 20 năm, thọ 81 tuổi.
Cụ Bà hiệu Từ Lương. Mộ cát táng tại xứ Ông Tiêu.
Các hậu duệ có Cụ Nguyễn Quý Công tự Viết Sỹ, hiệu Phương Chính.
Ngày giỗ 10 tháng 8.Cụ làm quan Hiệu Úy triều Trần. Hai con trai Cụ côn quyền xuất chúng thời Trần đánh giặc có công nên đều được phong Hiệu Úy.
Cụ Bà hiệu Từ Hòa.

GIA PHẢ THẤT LẠC ĐẾN ĐỜI TÂY SƠN.

Cụ Nguyễn Quý Công tự Thứ hiệu Phúc Thiện.
Cụ người minh mẫn, nói năng hoạt bát, ưa văn học, tiết kiệm khoan dung.
Cụ hiếm muộn sau khi cầu tự được bốn con.
Con cả: Duy Giai, giỏi về khoa chữa mắt sau làm Hương Hào.
Con thứ hai: Quang Diệu (Quang Chạc) thời Tây Sơn làm Xã Trưởng.
Con thứ ba: Quang Nhạ làm ruộng.
Con thứ tư: Duy Khoan, thời Tây Sơn làm Ngũ Trưởng sau thăng làm Mao Chức.
Cụ Bà hiệu Từ Ôn.
*Qúy công là danh xưng tôn kính của hậu bối (người chép gia phả) đối với bậc tiên tổ của mình. *Tên trong Gia phả thường gồm: tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường. *Đời Tây Sơn từ 1788 đến 1802.